Biên giới Tây Nam những ngày đầu năm trở nên nóng hơn khi Nam Bộ bước vào mùa khô. Nhiều địa danh gắn bó với dòng người Campuchia chạy nạn khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot hơn 40 năm trước như Suối Rúc, bàu Châu É, ngã ba chợ Miên... ở Tây Ninh giờ đã không còn.
Khu vực bàu Châu É nay là cánh đồng xanh mướt, trải dài hàng chục nghìn ha thuộc xã Tân Phú, huyện Tân Châu. Đường trải nhựa vào tận cuối xóm, nhiều căn nhà bêtông khang trang. Hàng chục nghìn người Khmer ngày ấy giờ chỉ còn chừng 20 gia đình với gần 100 nhân khẩu bám lại lập nghiệp.
Ke Grbu Vd AOvrc8Pn Dw Kw" alt="*">
Ông Lắc Son nhớ lại cảnh tháo chạy của gia đình. Ảnh: Phước Tuấn.
Ông Lắc Son (58 tuổi), một người Khmer gốc Campuchia vừa cắt cỏ về cho bò ăn, ngồi trầm ngâm trước cửa nhà. Sau khi Phnom Penh giải phóng, đồng bào lũ lượt trở về quê hương thì gia đình ông ở lại, chọn Việt Nam là quê hương thứ hai. Cuộc sống bình yên không làm ông lãng quên ký ức đau thương về cuộc trốn chạy khỏi đất mẹ năm nào. Khi nhắc lại, ông thốt lên: "hãi hùng, khổ cực lắm".
Quê ông Son là một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Svay Rieng, cách biên giới Việt Nam chừng 50 km. Trong trí nhớ của người nông dân, nơi ấy có cánh đồng lúa bao quanh, cuộc sống nghèo khó nhưng êm đềm. Nhưng mọi thứ đã đảo lộn khi tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary lên nắm quyền năm 1975.
Năm 1977, thiếu niên Lắc Son vừa tròn 17 tuổi. Chàng trai bị Khmer Đỏ bắt đi làm thủy lợi, cày cuốc... cùng hàng trăm thanh thiếu niên trong vùng. Đàn ông thì cuốc đất, đào hầm, đàn bà con gái thì tát nước, cấy lúa... "Mặt trời chưa mọc, bụng chưa ăn gì thì chúng đã bắt mọi người ra đồng làm. Ngày ăn được hai bữa trưa và chiều, mỗi lần một chén cơm", ông Son kể.
Bị bắt lao động như khổ sai, nhưng người làng không ai dám kháng cự vì sợ làm phật ý sẽ bị giết. Son mới lớn nhưng đã hiểu chuyện, chỉ im lặng làm việc. Dưới ách cai trị hà khắc của Khmer Đỏ, nỗi sợ hãi bao trùm, cái chết treo lửng trên đầu ngôi làng vốn yên bình. "Có lần chúng nghi ngờ người anh họ của tôi ăn riêng, chia rẽ tập thể nên trói tay, bịt mắt đưa đi. Từ ngày đó, anh ấy không về nữa", ông ngậm ngùi.
Hai năm sau khi Pol Pot nắm quyền, ngôi làng ngày càng tiêu điều, số người chết vì bị hành quyết tập thể, hoặc bị bắt đi lính ngày càng nhiều. Những người còn sống sức lực kiệt quệ, suy dinh dưỡng. "Không còn đường sống nếu ở lại, chúng tôi bàn nhau cách trốn sang Việt Nam để lánh nạn", ông nói về quyết định của gia đình.
Đêm khuya trung tuần tháng 10/1977, trời Svay Rieng tối mịt, cha mẹ ông dắt bốn anh em rời làng. Hành trang cho cuộc chạy trốn là 20 kg gạo, xoong nồi, chén bát và ít quần áo.
Cùng đi có bốn gia đình khác, nhóm 40 người có nhiều người già và trẻ nhỏ. Họ vừa đi vừa dò la, quan sát, bởi lúc này, quân Pol Pot đóng dày đặc trên các con đường để ngăn chặn dòng người chạy trốn. "Hễ phát hiện là chúng giết tại chỗ", ông Son chợt rùng mình, cắt ngang lời kể.
Cố gạt nỗi sợ, họ hướng về phía Đông để đến Việt Nam, men theo những đồng ruộng, mương nước. Cánh đồng lúa lúc này đã gần chín, thân lúa cao gần một mét trở thành "thành lũy" che chở cho những người bỏ trốn. "Chúng tôi phải khom người để đi. Những lúc thấy bóng dáng của chúng, người lớn dặn cả đoàn nằm xuống trườn trên mặt đất, áo quần đồ đạc, gạo ướt hết", ông nhớ lại.
Vừa rời khỏi làng chưa xa, một nhóm người đi sau bị phát hiện, quân Khmer Đỏ nổ súng giết sạch, không còn một ai. "Thấy vậy ai cũng sợ, em trai tôi lúc đó còn nhỏ nghe tiếng súng liền khóc, mẹ phải bịt miệng lại dỗ dành, cứ nghĩ chết đến nơi", người đàn ông nói. Vì sợ bị phát hiện, mẹ ông không dám nấu cơm, cả nhà ăn gạo sống cầm hơi.
Một ngày sau cuộc tháo chạy, gia đình Son đến xóm nhỏ bỏ hoang khi trời chạng vạng. Ở đây họ nấu cơm ăn và nghỉ ngơi lấy sức. Nhưng khi mọi người vừa chợp mắt thì tiếng súng nổ lại vang lên chát chúa. Ánh đèn và tiếng hò hét của quân Khmer Đỏ dội vào xóm nhỏ hoang vắng. "Chúng tôi bật dậy, ôm đồ đạc bỏ chạy ra hướng cánh đồng, nhiều người già bệnh tật không chạy nổi đành ở lại", ông kể tiếp.
Giọng ông Son chùng xuống khi nhắc về ông ngoại: "Sau một ngày lăn lê bò trườn trên những cánh đồng, chân cụ sưng lên, không thể chạy được nữa. Ông nói chúng tôi cứ chạy đi để tìm đường sống, còn ông già rồi chết cũng không sao". Nuốt nước mắt, cha mẹ ông dắt bốn anh em chạy theo nhóm người hỗn loạn. Phía sau họ, tiếng súng nổ như dí sát theo.
Trốn ở ngoài đồng chừng một giờ, thấy tiếng súng đã ngớt, ông Son được mẹ bảo quay lại tìm cụ. Nhưng khi ông lần về lại căn nhà nơi gia đình trú ngụ thì chỉ còn cảnh hoang vắng, xung quanh xác người ngổn ngang. Tìm chừng mười phút, ông quay lại tiếp tục đi về phía Việt Nam.
Tiếng súng vẫn không ngớt trên những cánh đồng biên giới. Nhưng trên đường trốn chạy, gia đình ông phát hiện một toán quân với màu cờ khác. Đó là bộ đội Việt Nam trên đường rút quân về. "Gia đình tôi reo hò chạy lại. Các anh ấy thấy người dân cũng vui vẻ, hối thúc đi nhanh về phía trước để họ bảo vệ đằng sau. Những cụ già, trẻ em đi không nổi được đưa lên xe tăng, xe đò, người lớn thì đi bộ theo một hàng dài, lúc này sự sống như mới nẩy mầm", mắt ông sáng lên khi tả niềm vui lúc đó.
N5-_cu2LC1Y1Ksw Rf A" alt="*">
Người dân Campuchia chạy sang Việt Nam lánh nạn diệt chủng của Khmer Đỏ. Ảnh: Tư liệu.
Nhóm người được đưa về Bến Sỏi, lên sà lan qua sông Vàm Cỏ Đông, đến khu vực lánh nạn thuộc huyện Châu Thành. Cuối năm 1977, thấy pháo kích của quân Khmer Đỏ ngày càng dữ dội, chính quyền tỉnh Tây Ninh quyết định đưa họ về bàu Châu É để khai hoang, lập nghiệp, ổn định cuộc sống.
Trên vùng đất mới, nhờ siêng năng cần cù, gia đình ông khai phá được vài mẫu đất để trồng lúa, khoai mì, bắp... Một năm sau, ông nên duyên vợ chồng với một cô gái Khmer cũng là người Campuchia chạy nạn.
"Sau giải phóng Phnom Penh, tôi có quay lại quê cũ nhưng căn nhà của cha mẹ đã bị phá bỏ, ruộng đồng cũng không còn nên ở lại. Cuộc sống giờ đã ổn định, tôi thấy hài lòng khi chọn Việt Nam làm quê hương thứ hai", ông Son tâm sự.
Sống cạnh nhà ông Lắc Son, ông Nhô Rưng (49 tuổi) đến Việt Nam sau đó một tháng. Rời Campuchia khi mới tám tuổi, ông Rưng vẫn không thể quên tuổi thơ khắc nghiệt nơi cố hương.
Gia đình ông Rưng có cha mẹ và bốn chị em. Làng cũ của họ tại Campuchia cách biên giới Việt Nam chừng 5 km. Khi đó, ông Rưng phải chăn bò cho Khmer Đỏ. "Sợ tôi bị bắt đi xa, cha mẹ luôn dặn dò không được nói bậy, làm phật ý lính Pol Pot", ông kể.
"Lúc ấy, chùa chiền ở làng tôi bị đập bỏ, ruộng lúa bị tịch thu, tiền không xài, giao thương với người Việt coi như là điều cấm kỵ. Việc bắt cá dưới ruộng ăn cũng không được, muốn ăn thì phải lén lút chứ không là bị giết", ông Rưng nói với vẻ hãi hùng.
Ngày chạy trốn sang Việt Nam, cha mẹ ông mang được ít chén bát, quần áo, bạt che mưa, mùng mền, và hai con bò. Họ men theo những con đường ruộng để đi trong đêm, đến gần biên giới thì gặp bộ đội Việt Nam. "Ở đây, bộ đội cho chúng tôi ở tạm hai ngày trong một vườn cao su. Họ cấp gạo, khoai mì, mùng mền cho dân lánh nạn. Sau đó dùng ôtô chở về bàu Châu É", ông nói.
Hiện gia đình ông Rưng gồm bốn thế hệ đã sinh sống và lập nghiệp ở huyện Tân Châu. Chị gái ông trong thời gian lánh nạn đã chọn người đàn ông Việt Nam làm chồng. "Con cái giờ cũng đã lập gia đình và ở riêng, vợ chồng cô con gái cũng được nhà nước quan tâm tặng nhà tình nghĩa nhằm ổn định cuộc sống", ông Rưng niềm nở.
Cùng chạy trốn với gia đình ông Rưng, nhiều người như ông Lóc Lao, Nhô Ram, Nhô Rát, Nhô Lon... cũng đã ở lại Tân Châu lập nghiệp.
Bà Hà Thị Huệ, Phó chủ tịch UBND xã Tân Phú, cho biết cộng đồng người Khmer gốc Campuchia ở ấp Tân Châu chủ yếu làm nông nghiệp, kinh tế tương đối ổn định với mức trung bình khá. "Cùng với người Chăm, người Khmer cùng hòa nhập với cộng đồng người Việt. Chúng tôi luôn tạo điều kiện tốt nhất cho họ yên tâm phát triển kinh tế cũng như đời sống tinh thần, phong tục", bà Huệ nói.
Trung tướng Triệu Xuân Hòa, nguyên Tư lệnh Quân khu 7 cho biết trong hai năm 1977-1978, đã có hàng chục nghìn người dân Campuchia chạy sang Việt Nam lánh nạn, trong đó có nhiều nhà hoạt động cách mạng như Hun Sen (Thủ tướng Campuchia hiện nay), Heng Samrin, Tea Banh, Bu Thoong...
Việc bố trí nơi định cư cho họ diễn ra liên tục trong thời gian đó trên các tỉnh biên giới, phần lớn tập trung ở Tây Ninh, Bình Phước (Sông Bé cũ), Long An...
Ban đầu, với tinh thần hữu nghị giữa hai nước, giải quyết xung đột biên giới trên tinh thần đàm phán hòa bình, những người chạy sang đều được Nhà nước trao trả về. "Tuy nhiên sau mỗi lần trả về ấy, tập đoàn Pol Pot tàn ác giết sạch, thì chúng ta bắt đầu mới dang vòng tay giúp đỡ, kể cả người dân và lực lượng cách mạng", trung tướng Hòa cho biết.
Wjm5vn Ut_Jg" alt="*">
Nơi tập đoàn Khmer Đỏ sát hại 11 thầy cô rồi ném xuống giếng tại trường Tiểu học Tân Thành, cạnh Quốc lộ 22B, xã Tân Lập, huyện Tân Biên, Tây Ninh. Ảnh: Phước Tuấn.
Tháng 5/1978, tại căn cứ Suối Râm, nay là xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ (Đồng Nai), dưới sự giúp đỡ của Quân đội Việt Nam, Lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia ra đời do Hun Sen làm Chỉ huy trưởng với 125 thành viên. Sau sáu tháng, đoàn 125 đã thành lập 15 tiểu đoàn, 76 đội công tác và một đội văn công với tổng số quân gần 10.000 người.
Nhờ sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Pol Pot và bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình, hòa hợp dân tộc và phát triển. Hải quân đánh bộ hiệp đồng đổ bộ trong chiến dịch Tà Lơn, giải phóng cảng Kampong Som và cảng Ream, mở đầu cho công cuộc giúp nhân dân Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot, tháng 1/1979. (Ảnh: TTXVN)
Nhờ sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Pol Pot và bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình, hòa hợp dân tộc và phát triển.
Việt Nam giúp Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng và hồi sinh đất nước
Trong chiều dài lịch sử, nhất là trong những năm tháng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Việt Nam và Campuchia luôn đoàn kết bên nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi chống kẻ thù chung, giành độc lập, tự do cho mỗi nước.
Tuy nhiên, sau khi lên nắm quyền lãnh đạo đất nước vào tháng 4/1975, được các thế lực bên ngoài giúp sức, tập đoàn Pol Pot đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biên giới nước ta, đồng thời, thực hiện chính sách diệt chủng tàn bạo đối với nhân dân Campuchia.
Chỉ trong 3 năm 8 tháng và 20 ngày (từ tháng 4/1975 đến cuối năm 1978), chế độ diệt chủng Pol Pot đã giết hại gần 3 triệu người dân Campuchia vô tội, xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ quan hệ tiền tệ, buôn bán và đẩy Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong.
Đối với Việt Nam, tập đoàn Pol Pot xuyên tạc lịch sử, kích động thù hằn dân tộc, cho quân gây rối, xâm lấn lãnh thổ nước ta trên vùng biển biên giới Tây Nam.
Không dừng lại ở đó, chúng còn đưa quân đánh chiếm đảo Thổ Chu và một số đảo khác ở khu vực Tây Nam của Việt Nam.
Trước hành động gây hấn và mở rộng chiến tranh của kẻ địch, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiềm chế và kiên trì thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị.
Nhưng càng kiềm chế, thì tập đoàn Pol Pot càng lấn tới, buộc chúng ta phải chọn con đường đứng lên thực hiện quyền tự vệ chính đáng.
Hành động của Việt Nam xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng, trách nhiệm quốc tế, cũng như lương tâm của một dân tộc từng chịu nhiều áp bức và ngoại xâm.
Trong cuộc chiến đấu gian khổ và ác liệt đó, biết bao cán bộ, chiến sỹ Việt Nam đã hy sinh, hoặc để lại một phần máu, thịt của mình trên các chiến trường. Sự giúp đỡ bằng xương máu của quân tình nguyện Việt Nam đối với cách mạng Campuchia là sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, vô tư, trong sáng.
Chủ tịch Quốc hội Campuchia Heng Samrin đã từng nói: “Sự giúp đỡ bằng xương máu của quân tình nguyện Việt Nam là sự giúp đỡ nhân đạo và đúng đắn nhất. Sự hỗ trợ này lẽ ra phải là nghĩa vụ chính yếu của cộng đồng quốc tế trong việc cứu giúp một dân tộc đang trong hoạn nạn bởi chính sách diệt chủng có tổ chức chính quy từ trên xuống dưới của chế độ Pol Pot.”
Vận chuyển quân tình nguyện Việt Nam từ Campuchia về nước. (Ảnh: TTXVN)
Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Hun Sen cũng từng khẳng định: “Quân dân Campuchia nếu không có sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam thì không thể giải phóng nhanh đến thế. Nếu Campuchia tự giải phóng thì dân Campuchia chết hết rồi.”
Cùng với hoạt động quân sự, Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia giúp Campuchia xây dựng chính quyền cơ sở, hỗ trợ vật chất giúp phục hồi kinh tế từ đống đổ nát do chế độ diệt chủng để lại.
Và thật vinh dự khi người dân Campuchia đã trìu mến gọi những chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam là “Bộ đội nhà Phật.”
Nhiều công trình ghi nhớ công ơn của quân tình nguyện, cựu chuyên gia Việt Nam cùng quân dân Campuchia chiến đấu, hy sinh đã được Chính phủ hai nước xây dựng cả ở Việt Nam và Campuchia, là những biểu tượng cao đẹp của quan hệ hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa hai dân tộc.
Dù thời gian hơn 40 năm đã trôi qua, phán quyết này đã trả lại công lý cho những nạn nhân vô tội bị tàn sát bởi bè lũ diệt chủng Pol Pot và một lần nữa khẳng định tính chính nghĩa sáng ngời và sự giúp đỡ vô tư, trong sáng của Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Tiếp tục đưa quan hệ Việt Nam-Campuchia ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả
Thủ tướng Phạm Minh Chính hội kiến Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Hun Sen. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)
Ngày nay, mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Campuchia tiếp tục được tiếp thêm sức mạnh từ những truyền thống vốn có từ lâu đời trong lịch sử. Quan hệ Việt Nam-Campuchia đã và đang được củng cố và phát triển vững chắc theo phương châm "láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài".
Những năm qua, quan hệ Việt Nam-Campuchia phát triển tốt đẹp trên nhiều mặt. Về chính trị, Lãnh đạo hai bên thường xuyên điện đàm, hội đàm trực tuyến. Hai bên phối hợp tổ chức thành công các cơ chế hợp tác song phương quan trọng.
Hợp tác kinh tế-thương mại, đầu tư giữa hai nước có nhiều khởi sắc. Mặc dù chịu khó khăn do đại dịch COVID-19, thương mại giữa hai nước vẫn tăng trưởng mạnh. 10 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giữa hai nước đạt 7,87 tỷ USD, tăng 87,5% so với cùng kỳ 2020.
Việt Nam có 188 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Campuchia với tổng số vốn đăng ký 2,88 tỷ USD, đứng thứ 5 trong số các nước đầu tư vào Campuchia.
Về hợp tác phòng, chống COVID-19, phát huy tinh thần “tương thân tương ái” chia sẻ những khó khăn trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 tại mỗi nước, trong năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã hỗ trợ khẩn cấp cho Chính phủ và nhân dân Campuchia cả tiền và vật tư y tế, trong đó có thiết bị và bộ xét nghiệm PCR tổng trị giá khoảng 300 nghìn USD.
Riêng trong năm 2021, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã tiếp tục hỗ trợ khẩn cấp cho Campuchia 500.000 USD tiền mặt và nhiều vật tư, thiết bị y tế như 800 máy thở, 2 triệu khẩu trang y tế, 300 nghìn khẩu trang N95 trị giá khoảng 10 triệu USD, góp phần thiết thực và hiệu quả vào nỗ lực ứng phó dịch COVID-19 của Chính phủ và nhân dân Campuchia.
Ngoài ra, các bộ, ngành, đoàn thể và địa phương có nhiều hình thức hỗ trợ trực tiếp đối tác phía Campuchia, thể hiện truyền thống sẵn sàng chia sẻ, tương trợ bạn lúc khó khăn, đóng góp ý nghĩa vào việc tăng cường tình hữu nghị giữa hai nước.
Đáp lại, Chính phủ, Hội Chữ thập Đỏ Campuchia, Hội Hữu nghị Campuchia-Việt Nam và nhân dân Campuchia đã tặng Việt Nam 200.000 liều vaccine Sinopharm, 1 triệu khẩu trang y tế, 100.000 khẩu trang N95, 100 máy tạo oxy và 350.000 USD tiền mặt.
Trên lĩnh vực đối ngoại, hai bên tích cực tăng cường phối hợp trong các hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh và ngoại giao tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Thường xuyên thực hiện tham vấn chính trị, chia sẻ thông tin kịp thời và phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là trong khuôn khổ hợp tác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc và các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mekong, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực và trên thế giới…
Nhìn lại chặng đường 43 năm qua, chúng ta tự hào và vui mừng nhận thấy “quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa Việt Nam và Campuchia luôn được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp đang tiếp tục không ngừng được củng cố và phát triển tốt đẹp, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước./.