Chúng tôi muốn khẳng định rằng, nhật ký chiến trường của nữ bác sĩ trẻ Đặng Thùy Trâm không phải là một cuốn sách viết về chiến tranh. Chúng tôi gọi cuốn sách là một giấc mơ về tình yêu; tình yêu dành cho con người đã thể hiện từ trang đầu cho tới trang cuối cùng.

Bạn đang xem: Cảm nhận về chiến tranh việt nam

Cuốn sách là một lời thỉnh cầu hòa bình dành cho nhân loại hôm nay, sự thỉnh cầu bằng chính sự hy sinh của tác giả của nó trong bối cảnh bi thương. Cuốn sách thôi thúc người đọc vươn tới một cuộc sống trong sạch, sự hòa thuận trong hợp tác, hòa bình và tình yêu.

Khát vọng được sống trong hòa bình trở nên thiêng liêng đối với nữ bác sĩ trẻ này. Thường xuyên xảy ra những điều bất trắc, sự khốc liệt của chiến tranh đã luyện cho tác giả niềm tin về một cuộc sống giản dị và trong sáng.

Về cuộc chiến tranh Việt Nam, đã được nhiều bên đề cập với những quan điểm của mình. Chúng tôi không có ý định dựng lại lịch sử cuộc chiến tranh đó. Chúng tôi nhìn nhận cuốn sách như một tác phẩm nghệ thuật, do vậy chúng ta chỉ quan tâm tới sứ mạng cũng như những thông điệp và những bài học dành cuộc sống hôm nay. Sự thành công về mặt xuất bản tất nhiên không chỉ ở Việt Nam mà tại nhiều nước đã tạo niềm tin về sự kỳ lạ của những hiện thực từng gây nhiều tranh cãi, hiện thực đó cuối cùng đã dạy cho chúng ta bài học về tình người, về những điều khủng khiếp có một không hai được cuốn Nhật ký ghi lại.

Nhiều lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam đã có nhiều hành động thiết thực nhằm chuộc lại lỗi lầm của quá khứ. Trong số 2,7 triệu lính Mỹ từng có mặt tại Việt Nam có hai anh em Frederic và Robert Whitehurst. Robert và Frederic là con một viên tướng Mỹ, cả hai từng tham chiến tại Việt Nam. Chiến tranh kết thúc Robert trở về cùng với một người vợ Việt Nam, còn Frederic thì mang theo về nhiều kỷ niệm đau buồn của cuộc chiến, trong số những kỷ niệm đau buồn có cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm.

Hiện nay nhiều nhà xuất bản của nhiều nước đã đề nghị bà Doãn Ngọc Trâm cho phép dịch và xuất bản Nhật ký Đặng Thùy Trâm tại các nước đó như: Hoa Kỳ, Italy, Pháp, Hy Lạp, Thụy Điển, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan...

Bản dịch sang tiếng Romania do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành là bản dịch Nhật ký Đặng Thùy Trâm đầu tiên ra tiếng nước ngoài được xuất bản.

Công đầu trước hết thuộc về dịch giả Phạm Viết Đào, một con người cần mẫn và tâm huyết, một chuyên gia Việt Nam hàng đầu về văn hóa và văn minh Romania. Phạm Viết Đào thật sự có những tình cảm gắn bó với cuốn nhật ký, từ nguyên bản tiếng Việt, anh đã dịch sang tiếng Romania trong một thời gian ngắn kỷ lục, anh đã chuyển hóa được phong cách trữ tình của nguyên tác. Cuốn sách do Phạm Viết Đào dịch đã được khoác một "bộ cánh" ngôn ngữ Romania duyên dáng như chính tâm hồn của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Bản dịch thật sự làm cho người đọc xúc động và tin cậy. Phạm Viết Đào rất xứng đáng nhận những lời chúc mừng từ phía chúng ta, người đọc Romania.

Chiến tranh xưa nay vốn được coi là công việc của đàn ông, Nhật ký Đặng Thùy Trâm đã cho thấy hình ảnh một thiếu nữ Hà Nội, một trí thức trẻ tràn đầy nhựa sống, một con người nhạy cảm có văn hóa đang phải hằng ngày hằng giờ quật cường đối mặt với sự bạo tàn và khốc liệt của chiến tranh. Hằng ngày hàng giờ nữ bác sĩ này phải sống trong cảnh bom đạn hủy diệt của kẻ thù, trong hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Chị đã viết một cách hồn nhiên về những gì đang diễn ra chung quanh mình; điều bất hạnh cho chị, hiện thực mà chị đang sống là một hiện thực đầy rẫy sự hiểm nguy, chết chóc.

Hiện thực trong cuốn nhật ký được đề cập là một hiện thực điển hình nhưng không cá biệt; hàng triệu người Việt Nam đã từng sống và chịu đựng những hoàn cảnh khốc liệt như thế hoặc hơn thế. Cuốn nhật ký của nữ bác sĩ trẻ này đã thật sự thu hút người đọc bởi chiến tranh đã được trình bày qua cảm nhận và suy tư của một con người bình thường, một người đang đảm nhận những công việc dân sự. Nữ bác sĩ này luôn bị dày vò bởi khát vọng làm gì để vợi bớt những nỗi đau cho đồng đội của mình. Để bảo vệ Tổ quốc, Đặng Thùy Trâm, một thiếu nữ đang ở tuổi hoa của đời mình tình nguyện lao vào chiến trường máu lửa và chấp nhận mọi sự hy sinh.


Thỉnh thoảng trong cuốn nhật ký xuất hiện những biểu hiện mềm yếu trong cõi lòng của một thiếu nữ. Tác giả đã bộc lộ những nét đẹp điển hình của phụ nữ Việt Nam: Đẹp về tâm hồn lẫn thể chất, nhạy cảm, trung hậu, đảm đang, sẵn sàng hy sinh chính bản thân mình. Chị đã bộc lộ rõ những phẩm chất của một người yêu nước thiết tha, một chiến binh quả cảm khi lâm trận, không bao giờ chịu lùi bước hay quỳ gối trước sức mạnh của bạo tàn.

Người Việt Nam có câu phương ngôn: Giặc đến nhà đàn bà phải đánh!

Trong một bức thư của Fred gửi cho bà Doãn Ngọc Trâm có đoạn viết: "Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ đồng đội mình. Ở bất kỳ nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là anh hùng dù bất kể người đó là đàn ông hay đàn bà...".

Sức mạnh của cuốn nhật ký và công trạng của bác sĩ Đặng Thùy Trâm là đã liên kết được số phận và trái tim của nhiều con người bình thường của nhiều thế hệ cùng nhau hồi ức về một kỷ niệm đau buồn: cuộc chiến tranh Việt Nam. Và vượt lên tất cả cuốn nhật ký đã thức tỉnh mọi người hãy cùng nhau chống lại những hành động bạo tàn.

Rob đã viết trong một bức thư gửi bà Doãn Ngọc Trâm: "Tôi biết Thùy Trâm không hề có ý định viết cho cả thế giới này đọc, nhưng có lẽ chính vì thế mà niềm tin sâu thẳm nơi chị được viết ra một cách chân phương, mộc mạc... Những lời bày tỏ về tình yêu của chị cũng như những lời gọi thiết tha về gia đình khiến bất cứ ai từng được đọc qua cũng phải xúc động... Lời Thùy là một cây cầu bắc qua dòng sông chất chứa bao sự vô tình, bao cay đắng, bao nỗi buồn, bao niềm tin lầm lạc đã chia cắt hai dân tộc chúng ta quá lâu...".

Còn nhà báo Mỹ David Perlmut đã viết trên tờ Charlotte Observer: "Tôi muốn nói tất cả chúng ta đều là cư dân của hành tinh này và mọi người nên đọc cuốn nhật ký này để hiểu, để đánh giá đúng được hoàn cảnh mà cuốn nhật ký đã ra đời. Cho đến khi điều này được thấu hiểu, nhân loại mới có cơ hội chấm dứt tất cả cuộc chiến tranh trên địa cầu này...".

Nhật ký Đặng Thùy Trâm đã trở thành chuyện cổ tích của thời hiện đại khi cái thiện vẫn còn tồn tại song hành với cái ác. Nhiều thiếu nữ như Đặng Thùy Trâm với những khát vọng sống cao thượng tiếp tục bị đe dọa bởi chiến tranh, chết chóc. Những lời giản dị được thốt lên từ trái tim trong sáng của Đặng Thùy Trâm giống như một lời nguyện cầu cho tình yêu, cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc và sự hợp tác trong hòa bình...

Khi bước vào tuổi thiếu niên, tôi chợt nhận ra rằng, mình không có cha, khác với bạn bè cùng trang lứa. Sau này tôi mới hiểu, “nhắc đến cha là điều cấm kỵ, vì cha là Việt Minh tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và đi tập kết ở miền Bắc”.


Mẹ tôi luôn dặn dò các con như vậy! Tôi cứ nghĩ tại sao cha là Việt Minh chống thực dân Pháp, mà lại không được nhắc đến; cũng như ông cố tổ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân của chúng tôi, một chiến sĩ yêu nước kiên cường chống Pháp, người bị thực dân Pháp chặt đầu, mà sau này dưới ách thực dân và chính quyền tay sai của Pháp, gia đình nội của mẹ tôi mỗi lần đi thăm mộ phải lén lút trong đêm?!
Ghi lại những cảm xúc này, tôi bày tỏ sự khởi đầu nhận thức cũng như tình cảm yêu nước của tôi. Đơn giản là chưa lý giải được căn nguyên và nguồn gốc cuộc đấu tranh trường kỳ để giải phòng dân tộc và thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta, mà sau này tôi mới hiểu.
Khi đã bước vào tuổi thanh niên, là học sinh của một trường trung học, tuy sống trong sự kềm kẹp, hà khắc của công an, cảnh sát, cùng hệ thống chính quyền xã, ấp của chế độ Sài Gòn, từng bước tôi đã hiểu được tính chính nghĩa của Việt Minh trước đây cũng như Việt Cộng mà Mỹ và chế độ Sài Gòn đặt ra để chỉ những người yêu nước ở miền Nam.
Vào thời điểm này, được tiếp xúc với cha, cùng các chú, các anh là chiến sĩ Quân giải phóng, tôi tiếp thu được nhiều thông tin về cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam. Tôi hiểu rằng: chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ đang trên đà phá sản, nhất định Mỹ sẽ đưa quân vào miền Nam. Tình hình này càng thôi thúc tôi sớm ra chiến khu và tham gia Quân giải phóng. Và tôi đã thực hiện được ước vọng của mình, đúng thời điểm Mỹ đưa quân trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Trước nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn, Mỹ đã chuyển chiến lược chiến tranh đặc biệt sang chiến lược chiến tranh cục bộ.
Qua hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 mà tôi đã được chứng kiến trên chiến trường Đông Nam bộ, tôi thấy rõ, Mỹ đã không thực hiện được mục tiêu “tìm và diệt”. Đặc biệt, trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966 - 1967, mà đỉnh điểm là cuộc hành quân Junction City ở Đông Nam bộ cùng những chiến trường khác trên toàn miền Nam, Mỹ đã thất bại.
Cũng như bao chiến sĩ Quân giải phóng trên chiến trường miền Đông Nam bộ, tôi đã chiến đấu trực tiếp với quân Mỹ. Chính thực tiễn này, đã giúp tôi hiểu được: sức mạnh của quân đội Mỹ là có hạn.
Tôi nhớ mãi lời động viên đầy tâm huyết của một đồng chí lãnh đạo Quân giải phóng: phải có cặp mắt nhìn xuyên qua ác liệt thì mới thấy được thắng lợi. Các chiến sĩ của chúng ta ở thời điểm đó, quả thật đã thể hiện xứng đáng quyết tâm, ý chí, lòng dũng cảm - quyết chiến, quyết thắng.
Giữa lúc quân đội Mỹ đang bế tắc về chiến lược, cuộc tiến công Mậu Thân 1968 nổ ra. Chúng ta xuống đường “trong sự hồ hởi, phấn khởi để giải phóng miền Nam”. Được trực tiếp chiến đấu đánh vào Sài Gòn, cả đợt một và đợt hai (tháng 5.1968), tôi thấy rõ sự dũng cảm, hy sinh của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ chúng ta. Có lúc tôi và nhiều đồng đội khác ở vào tình thế hết sức hiểm nghèo, nhưng tất cả một lòng, một dạ dấn thân vì sự nghiệp giải phóng miền Nam. Đến nay vẫn còn văng vẳng bên tai tôi lời kêu gọi của đồng chí chính ủy Trung đoàn: “Chúng ta là quân cách mạng, chỉ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng trên chiến trường. Không từ bỏ vũ khí. Và không đầu hàng”. Tình cảm và ý chí cách mạng lúc đó sao mà thiêng liêng đến vậy!
Về cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, các học giả, nhà nghiên cứu, chuyên gia lịch sử quân sự chính trị trong và ngoài nước (kể cả chính trị gia Mỹ) đã bàn nhiều về sự thất bại của Mỹ. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, ta bị thiệt hại khá nặng nề (đặc biệt là các cuộc phản kích ác liệt sau đó của địch trên chiến trường từ vùng ven các thành phố, thị xã đến khu vực trung tuyến và địa bàn rừng núi), sao có thể nói đó là thắng lợi?
Trong dịp được tham gia làm bộ phim tài liệu “Nhớ về Sài Gòn Mậu Thân 1968” tôi có phát biểu về ý nghĩa thắng lợi của sự kiện lịch sử này. “Tôi nghĩ không có một chiến thắng nào mà không trải qua ác liệt, hy sinh. Mậu Thân 1968 là một trong những điển hình đó, cái chúng ta được lớn nhất cần ghi nhận đầy đủ chính là vấn đề chiến lược. Mỹ nhận ra rằng, không thể thắng Việt Nam trong cuộc chiến tranh này, phải “xuống thang” và phải tính phương cách khác, không thể trực tiếp tác chiến với chúng ta. Phải chuyển chiến lược, từ chiến lược chiến tranh cục bộ sang chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Và hệ quả của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh như thế nào, lịch sử đã minh chứng; sự kiện lịch sử 30.4.1975 đã nói rõ điều đó”.
Nhìn lại lịch sử từ sau Mậu Thân 1968 đến ngày giành thắng lợi hoàn toàn 30.4.1975, chúng ta càng thấy Đảng ta đã thấm nhuần sâu sắc tư tưởng chiến lược của Bác Hồ. Chúng ta đã “vừa đánh, vừa đàm” vừa củng cố, xây dựng lực lượng, liên tục tiến công địch trong tình thế Mỹ phải lần lượt rút quân. Cũng như bao chiến sĩ khác trong đơn vị tôi vô cùng lo lắng trước diễn biến của cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội và Hải Phòng cuối năm 1972; và có niềm phấn khích tột cùng khi quân dân ta tạo ra một “ Điện Biên Phủ” trên không, buộc Mỹ phải ký kết hiệp định Paris kết thúc sự dính líu tại Việt Nam. Không còn chỗ dựa, chế độ và quân đội Sài Gòn đã nhanh chóng sụp đổ trước sức tiến công của quân và dân ta trong Đại thắng mùa xuân năm 1975.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta mà đỉnh cao có tính quyết định là Đại thắng Mùa Xuân 1975 có ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Là một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng ta định ra chủ trương, đường lối đúng đắn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hòa bình thống nhất đất nước.
Song các thế lực thù địch, chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn với mưu đồ chiến lược của riêng họ đã hậu thuẫn, chỉ đạo bọn phản động Pôn Pốt, Iêng Xa rytiến hành chiến tranh xâm lược trên biên giới Tây Nam của đất nước ta. Thất bại trong chiến lược này, chúng không ngần ngại mở cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc. Với chiêu bài láo xược “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Có mặt vào thời điểm lịch sử trên chiến trường biên giới phía Bắc của Tổ quốc; tôi đã tận mắt nhìn rõ tội ác của quân xâm lược, và lòng căm thù của đồng bào ta, đặc biệt là đồng bào dân tộc. Trong bối cảnh chúng ta phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược ở cả biên giới Tây Nam và phía Bắc, Mỹ cấu kết với chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn bao vây cấm vận gây thêm biết bao khó khăn cho chúng ta.
Đất nước ta đã trải qua cuộc đấu tranh trường kỳ chống xâm lược. Ước vọng lớn nhất của mỗi chúng ta là giữ gìn hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Trước tình hình quốc tế, khu vực có những biến đổi sâu sắc như hiện nay, chúng ta luôn kiên trì chính sách nhất quán hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng có lợi với tất cả các nước. Đối với chúng ta, Mỹ và Trung Quốc đều là đối tác “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trong sự đan xen những mâu thuẫn cùng nhiều sự khác biệt. Chúng ta có quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Trung Quốc cùng nhiều nước khác tạo điều kiện để Việt Nam hội nhập sâu rộng cùng cộng đồng quốc tế. Đây là kết quả của đường lối đổi mới của Đảng ta trong hơn 30 năm qua.
Nỗ lực phấn đấu vì hòa bình, hợp tác cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cùng có lợi là phương sách để giữ gìn hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước bền vững. Tôi nghĩ đó là điều cần suy ngẫm thật sâu sắc cho hiện nay và mãi mãi sau này. Đó cũng chính là khát vọng, và làm sâu sắc thêm niềm tự hào dân tộc về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cũng như Đại thắng Mùa Xuân năm 1975.

Xem thêm: 50+ Mẫu Tranh Tô Màu Con Vật Cho Bé 4 Tuổi, Tranh Tô Màu Con Vật Cho Bé Tập Tô


*

Kỳ tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo T.Ư, Tỉnh ủy Đắk Nông phối hợp tổ chức hội thảo khoa học cấp quốc gia 'Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh - biểu tượng của ý chí thống nhất Tổ quốc'.