Có một thời đại đã đi vào thơ ca trong âm vang hào hùng của núi rừng và trong tiếng súng trường văng vẳng. Thời đại ấy đã tạo nên những người lính cụ Hồ kiên trung, anh dũng. Lê Anh Xuân đã từng tạc vào nền văn chương kháng chiến một dáng đứng Việt Nam về anh chiến sĩ giải phóng quân kiêu hùng. Quang Dũng tìm thấy nét đẹp tài hoa, lãng mạn trong “Đôi mắt người Sơn Tây”. Đến với Chính Hữu, nhà thơ đã vẽ nên bức chân dung về tình đồng chí đồng đội của những người lính trong buổi đầu kháng chiến. “Đồng Chí” đã thực sự để lại dấu ấn sâu đậm trong nền thơ ca Việt Nam và một tình cảm đẹp có sức lay động tâm tình bao thế hệ.

Bạn đang xem: Đoạn văn cảm nhận bài thơ đồng chí chọn lọc hay nhất

Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948 – sau chiến dịch Việt Bắc ( thu đông 1947 ).Trong chiến dịch này, Chính Hữu là chính trị viên đại đội, ông đảm nhận nhiệm vụ chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau chiến dịch, vì là rất vất vả, nên ông bị ốm nặng. Được sự chăm sóc tận tình của đồng chí mình, nhà thơ cảm động và viết nên câu chuyện tình đồng đội như một lời cảm ơn chân thành đến người đồng chí bên cạnh mình. Vượt qua giới hạn tình cảm cá nhân, bài thơ Đồng chí là bài ca lớn của thời đại, gắn với giọng thơ tâm tình, mộc mạc nhưng vẫn trọn vẹn chất lính.

Bài thơ được viết theo thể tự do. Câu thơ hàm súc nhưng có độ ngân xa, từng câu chữ chất chứa cảm xúc và cả trí tuệ, có độ dồn nén lay động. Bài thơ như một thông điệp chứa đựng cả hạt nhân tư tưởng, kết tinh từ những kinh nghiệm của đời sống người lính – thi sĩ gắn bó suốt đời mình với quân đội.

Ngay ngan đề bài thơ cũng là ví dụ điển hình nhất trong lối thơ lời ít ý nhiều của Chính Hữu. Đồng chí là: “Người cùng chí hướng chính trị trong quan hệ với nhau”. Đây là tình cảm gắn bó giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng môi trường sống. Chính Hữu đã không đưa cả quan niệm chính trị nghiêm khắc của nhà binh vào thơ mình mà nâng Đồng chí thành một biểu tượng đẹp về tình cảm thiêng liêng giữa cuộc chiến.

Bài thơ bắt đầu bằng mạch thơ tâm tình, bộc bạch như lời đôi bạn chia sẻ cho nhau về hoàn cảnh gia đình của bản thân mình. Ấy cũng chính là cơ sở hình thành tình đồng chí

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

“Anh” và “tôi”, “quê hương anh”, “làng tôi”, cách liệt kê này đã toát lên được mối thâm tình từ ngàn đời của người nông dân. Dù họ không cùng chung xứ sở, mỗi người sinh ra trên những làng quê khác nhau nhưng giữa họ đã cùng chung giai cấp, chung mảnh đất quê hương, chung công việc gắn bó với đất đai, vườn tược.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Nhà thơ đã khéo léo khi vận dụng thành ngữ “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” để nói về quê hương người lính. Ấy là những nơi đâu? Vùng chiêm trũng nhiễm mặn, ven biển ngập phèn hay vùng đất nắng gió chỉ có sỏi đá cằn khô? Hình ảnh thơ gợi về những thành ngữ chỉ sự nghèo nàn, cơ cực “chó ăn đá, gà ăn sỏi”. Thế nhưng người nông dân không bao giờ chê đất xấu, họ bám đất như tre bám rễ, lam lũ từng ngày, chắt chiu từng hạt gạo để nuôi con mình khôn lớn. Rồi thiên tai, mất mùa chưa kể trước đây phải sưu cao thuế nặng, phải chịu ách đô hộ của thực dân. Thế nên dù vất vả quanh năm mà vẫn quanh năm nghèo đói. Nỗi khổ cuộc sống hằng ngày đâu bằng nỗi đau mất nước, người nông dân ý thức được trách nhiệm của thế hệ mình là đánh đuổi kẻ thù mới có cơm no áo ấm sau này. Chính họ, những người lính áo vải đã tiên phong cho cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại.

“Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng”

Ở người lính, sự tương đồng về giai cấp xuất thân đã giúp họ hiểu nhau hơn bao giờ hết. Xuất thân cơ hàn đã giúp họ mạnh mẽ vượt qua những gian khổ để cùng nhau đứng lên vì tổ quốc. Hình tượng người lính cụ Hồ từ lâu đã dựng lên thành bức tượng đài vững chãi trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn thơ cách mạng nói riêng. Một lần nữa hình tượng ấy được tái hiện rõ nét trong sự gắn kết về lý tưởng sống lớn lao.

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Hình tượng “súng” ẩn dụ cho chiến tranh, khói lửa, cho nhiệm vụ thường trực của người lính. Dù nguy hiểm, gian khổ nhưng vẫn ngời lên nét mặt tự hào vì trên đôi vai của mình bây giờ là cả tương lai dân tộc. Trách nhiệm làm con người trở nên trưởng thành hơn, lý tưởng sống nâng tầm vóc anh nông dân thuở nào đứng trên tầm cao thời đại. Chính những tương đồng tưởng chừng nhỏ bé lại là sợi dây tình cảm sâu sắc nhất gắn kết người lính cách mạng dẫu trong chiến trường ác liệt. Có trải qua những ngày tháng gian khổ cùng nhau mới có thể hiểu được rằng điều làm nên sức mạnh không gì khác ngoài tình đồng chí. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” gợi nhớ đến những đêm rừng mưa tuôn mưa xối hay những mùa đông gió cắt da người, với tấm áo mỏng manh không thể giảm được cái lạnh giá đêm trường. Người lính chia nhau mảnh chăn nhỏ bé rồi truyền cho nhau hơi ấm từ đôi chân trần. “Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa”. Tố Hữu cũng đã từng ngợi ca tình quân dân nồng thắm trong bài thơ Việt Bắc qua chi tiết cảm động “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”.

Câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỷ niệm thời gian khổ, chia ngọt sẻ bùi mới thành “đôi tri kỷ”. Cách sử dụng từ từ ngữ của nhà thơ vừa chân chất lại vừa trang trọng. Tri kỷ là người hiểu mình như hiểu bạn, là người chia sớt mọi chuyện buồn vui trong đời. Từ tình tri kỷ sau này sẽ phát triển thành tình đồng chí thiêng liêng.

Hơi ấm của tình đồng đội thật đơn giản mà cảm động. Câu thơ xuất phát từ đáy lòng bộc lên thành tiếng gọi thân thương “Đồng chí”. Chỉ bằng hai từ ngắn gọn nhưng đã thu vào đấy cả một dáng đứng vững chãi tạo thành tâm điểm của sức mạnh niềm tin rắn rỏi. Trong sáu câu thơ trước đó, khi nói đến cơ sở hình thành tình đồng chí, Chính Hữu đã dồn nén cảm xúc để rồi đến câu thơ thứ bảy tiếng gọi Đồng chí vang lên như một nốt nhấn thiết tha trong khúc nhạc tình đồng đội. “Đồng chí!” chính là điểm sáng bừng lên của cả đoạn thơ, sức ấm áp lan tỏa thành thông điệp quan trọng nhất tác phẩm. Đâu chỉ là cùng chung lý tưởng, chung nhiệm vụ chiến đấu, đồng chí còn chan chứa bao ân tình, tình bạn thâm giao, tình người xa xứ, tình anh em một nhà, tình thương đồng bào dân tộc…Thế nên khi gọi nhau bằng đồng chí tiếng gọi trìu mến thân tình như gọi chính bản thân mình. Anh và tôi tuy hai mà một bởi vì chúng ta đã gắn kết đời nhau bằng cả lý trí lẫn ân tình.

Sau những điểm chung về xuất thân, lý tưởng, tình cảm, những biểu hiện của tình đồng chí lần lượt được khắc họa bằng những câu thơ nhẹ nhàng như chính dòng nhật ký của người lính về kỷ niệm riêng tư nơi quê nhà để rồi từ đấy người đọc nhận ra yếu tố quyết định sự thành bại của cuộc chiến khởi nguồn từ sự cảm thông, thấu hiểu.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Anh cũng như tôi, chúng ta đến từ những nơi đồng quê hẻo lánh. Nói như cách của Hồng Nguyên “lũ chúng tôi bọn người tứ xứ”. Các anh đều xuất thân lam lũ, chân lấm tay bùn, vì nghĩa lớn mà gác lại chuyện ruộng vườn lên đường kháng chiến. Trong lòng mỗi người đều có một nơi để nhớ về. “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày”, câu thơ như dẫn lời nói trực tiếp của một anh chiến sĩ vừa nhập ngũ vẫn còn chút gì vương vấn nơi cắt rốn chôn nhau. Không nhớ không thương làm sao được khi bao đời nay người nông dân chỉ biết có ruộng đồng, làm bạn với cuốc cày. Đất nước đang vẫy gọi, anh phải lên đường để lại gian nhà “gió lung lay”, gửi lại giếng nước, gốc đa, con đò, bến đợi…Anh gửi cả những người thân yêu cho bạn bè ở lại. Câu thơ mộc mạc hiện lên từng hình ảnh thân thương của quê nhà. “Gian nhà không” thiếu trước hụt sau, mưa tạt gió lùa. Anh đi rồi gian nhà lại như thêm trống trải, không ai đỡ đần không ai coi sóc nên mặc kệ gió thốc mưa lùa. Hai tiếng “mặc kệ” dù bên ngoài thể hiện thái độ dửng dưng nhưng thật ra lòng người đi đâu vô tâm đến thế. Đọc những dòng thơ trong bài Đất Nước của Nguyễn Đình Thi sẽ thấu được vẻ ngoài mặc kệ là bên trong đang luyến lưu, bịn rịn.

“ Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng, lá rơi đầy”

Trong giờ phút chia tay, làm sao có thể không buồn không nhớ. Chẳng ai có thể vô tình quên lãng hồi ức về những người thân huống hồ chi nơi quê nhà có bóng hình người mẹ già, vợ trẻ, đứa con thơ đang trông ngóng.

“Ba năm rồi gửi lại quê hương

 Mái lều gianh

 Tiếng mõ đêm trường

 Luống cày đất đỏ

 Ít nhiều người vợ trẻ

 Mòn chân bên cối gạo canh khuya”

Có như thế mới hiểu được người lính đã phải kiên cường biết mấy khi gạt đi tình riêng mà gánh vác sứ mệnh chung của dân tộc. Các anh ra đi, “giếng nước, gốc đa” nhớ các anh mong ngày anh trở lại. Biện pháp nhân hoá kết hợp hoán dụ đã làm nổi bật mối giao tình của người lính và quê hương xứ sở. Với quê hương, người lính là niềm tự hào, là hy vọng sống thế nên dù có nhớ có thương cũng vui lòng mà tiễn các anh, làm chỗ dựa tinh thần vững chắc để các anh yên tâm công tác. Giếng nước gốc đa nhớ các anh hay chính lòng các anh đang hướng về gốc đa, giếng nước? Nhà thơ đã mượn hình ảnh thân thuộc từ trong ca dao “Cây đa cũ, bến đò xưa” để nói lên tấm lòng ân nghĩa thuỷ chung của người lính dành cho quê hương mình. Chính tình yêu cá nhân đối với những điều thân thuộc đã vươn vai thành tình yêu lớn đối với tổ quốc. Câu thề ngày lên đường người lính còn nhớ mãi, đấy là động lực to lớn để các anh phấn đấu lập chiến công, đợi ngày đất nước sạch bóng quân thù, quê hương thanh bình trở lại.

Có thể nói, cách mạng đã đem đến ánh sáng trong đời sống cùng khổ của giai cấp cần lao. Đã thổi bừng niềm tin tưởng ở tương lai và tác động đến những chuyển biến tích cực đối với người lính. Ở họ, trong khó khăn, thiếu thốn vẫn ngời lên sự đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

Đi qua một thời chiến tranh mới thấy hết giá trị của hoà bình, sống trong cảnh cơ cực mới trân trọng những ngày tháng ấm êm. Thế hệ chúng ta đâu hiểu được hết những nỗi vất vả mà thế hệ ông cha mình đã trải qua. Chưa kể đến những mất mát hy sinh trong bom đạn, ngay cuộc sống hằng ngày đã phải chịu nhiều thiệt thòi, gian nan. Người lính sống trong rừng “lấy lá cây làm chiếu, manh áo phủ làm chăn” mà thời tiết trong rừng thì khắc nghiệt, bao nhiêu mối nguy hiểm luôn rình rập “đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người (Tây Tiến – Quang Dũng). Sợ nhất vẫn là muỗi rừng độc địa gây ra căn bệnh sốt rét, nỗi ám ảnh của người lính mỗi lần nhắc đến. Thật ra căn bệnh sốt rét rừng không quá nguy hiểm nhưng vì những năm đầu của cuộc kháng chiến cuộc sống của bộ đội ta còn nhiều thiếu thốn. Đâu chỉ thiếu về vũ khí, tư trang mà còn thiếu cả thuốc men, lương thực. Trong văn chương đã từng xuất hiện hình tượng các anh “vệ trọc” hay “vệ túm”. Đó là cách gọi nhau tếu táu đậm chất lính tráng nhưng đằng sau lại ẩn chứa cả một giai đoạn gian nan. Căn bệnh sốt rét rừng ngoài việc khiến cho sức khỏe suy kiệt “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” thì còn để lại di chứng rụng tóc, da xanh xao. Cái tên “vệ trọc” từ đó mà ra.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Với tư cách là một người chiến sĩ, hơn ai hết, Chính Hữu hiểu người lính như hiểu chính mình. Nhà thơ cũng không dùng ngôn từ hoa mỹ để tô vẽ cho sự kiêu hùng mà sử dụng hình ảnh mộc mạc để nói một cách chân thật đời sống của người lính cụ Hồ.“Áo anh rách vai”, “quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giày”. Từng câu thơ như liệt kê, như kể lể nhưng thật ra đâu phải người lính thở than kể khổ. Điều mà nhà thơ muốn nói là trong gian khổ, trong thiếu thốn mới thấy được tình đồng chí bền chặt như keo sơn. Một người bạn của mình bệnh tật hay bị thương thì người bên cạnh sẽ chăm sóc, thuốc thang. Vất vả cùng nhau san sẻ, có chén cơm, nắm xôi cùng chia sớt. “Anh với tôi” có khác gì nhau nên chúng ta chính là người thân, là người một nhà. Càng đối mặt với thiếu thốn, vẻ đẹp tâm hồn người lính càng được nâng lên. Vượt qua khó khăn, vượt qua giá lạnh đêm rừng, tình đồng đội thể hiện qua cái nắm tay trìu mến “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Cái nắm tay ấy đầy ý nghĩa. Nó thay lời các anh gửi đến đồng đội mình, hãy kiên cường, hãy vững lòng tin vào ngày mai. Các anh là vàng thì không sợ lửa. Chất vàng mười trong gian lao càng sáng. Mặc dù hiện tại cuộc sống của người lính còn gian khổ nhưng hãy nhìn sứ mệnh mà lịch sử đặt trên vai, các anh sẽ mỉm cười động viên nhau. Chính Hữu chọn chi tiết “miệng cười buốt giá” rất đắt. Chi tiết này vừa nói lên cái lạnh của đêm thâu, hơi thở như toả ra từng làn khói trắng nhưng chỉ cần có nụ cười thì ấy chính là ngọn lửa bừng sáng. “Chân không giày” cũng là chi tiết phản ánh hiện thực nhưng không phải là hiện thực trần trụi, khốc liệt mà là hiện thực được nhìn bằng tâm tư người lính hài hoà với cái nhìn của thi sĩ. Đôi chân trèo đèo vượt suối, đi qua biết bao dặm đường dài, đôi chân đi lùng giặc đánh “áo vải chân không đi lùng giặc đánh (Nhớ – Hồng Nguyên) nhưng chẳng có một đôi giày đúng nghĩa. Bằng đôi chân trần mòn gót, người lính vượt qua núi rừng khúc khuỷu đi đến những chặng đường vinh quang. Dấu chân anh lưu lại ở mọi miền đất nước, nơi nào có anh nơi ấy sẽ có những chiến công vang dội.

Khổ thơ cuối vẻ đẹp của người lính hiện lên lý tưởng cùng với khát vọng lập chiến công, khát vọng hoà bình.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Bức tranh đẹp về tình đồng chí hiện lên trên nền của cảnh rừng âm u, lạnh lẽo “rừng hoang sương muối”. Sự khắc nghiệt của thời tiết không chỉ là cái giá lạnh của gió, cái rát mặt của sương muối mà còn ẩn chứa bao nguy hiểm đang rình rập.

Thế nhưng dáng đứng của các anh canh giữ giấc ngủ cho đồng đội lại rất hiên ngang, chủ động. Ánh trăng treo trên bầu trời đâu sáng bằng đôi mắt của các anh ngời sáng trong đêm. Trong tư thế “chờ giặc tới” các anh không hề nhỏ bé, chơi vơi giữa rừng già mênh mông mà trở thành tâm điểm của bức tranh. Tinh thần lạc quan của người lính đã bừng sáng cảnh vật, xua đi cái lạnh thấu xương, chỉ cần bên anh có đồng chí “đứng cạnh bên nhau”. Chính Hữu không tả nhiều viết nhiều nhưng mỗi hình ảnh thơ là sự chắt lọc tinh tế, mỗi câu thơ bật ra từ tâm hồn tài hoa, lãng mạn. Câu thơ cuối chính là điểm nhấn, là hình ảnh đắc nhất bài thơ.

“Đầu súng trăng treo”

Vầng trăng bao đời nay vẫn là tri kỷ của các anh chiến sĩ. Trong những đêm hành quân qua đèo núi, trăng là ánh đuốc soi đường. Trăng gợi nhớ quê hương, nhớ những ngày tháng ở đồng, ở sông, ở bể. Giây phút ấy, dù chỉ ngắn ngủi thôi, các anh tạm gác lại chiến trường ác liệt, tạm quên đi nỗi mất mát, thiếu thốn thường trực để thả tâm hồn mình vào ánh sáng từ nơi xa xôi kia. Nơi ấy có phải mẹ già, em thơ cũng ngắm vầng trăng rồi nhớ người ra trận. Mẹ ngồi đếm mấy mùa trăng qua chờ đợi con về. Trăng nghiêng nghiêng soi bóng xuống nhân gian, đem chút bình yên đến với tâm hồn người lính. Như thế mới thấy được vẻ đẹp toàn diện trong trái tim của các anh chiến sĩ. Ai bảo lính là gai góc, sần sùi, lính là khô khan, không tình cảm. Các anh lính cụ Hồ dù thiếu thốn mọi bề nhưng tâm hồn luôn rộng mở, luôn hướng đến ánh sáng niềm tin và để lòng mình rung động trước thiên nhiên. Cái lãng mạn bay bổng ấy không làm cho người lính xao lãng việc quân mà ngược lại còn trở thành động lực để các anh dũng cảm hơn, kiên trung hơn với lý tưởng của mình.

Hình ảnh trăng treo trên đầu ngọn súng thật thú vị biết bao.

Trăng tượng trưng cho hòa bình, thơ mộng còn súng thì tượng trưng cho chiến tranh, khốc liệt. Súng ở gần trăng treo tít trên cao. Tuy nhiên ở góc nhìn bao quát, ánh trăng như treo trên đầu súng. Hình ảnh này gợi nhớ đến cái nhìn thú vị pha chút tinh nghịch của người lính Tây Tiến “heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Súng và trăng tưởng chừng đối lập nhau, súng là thực tại còn trăng là ước mơ, thế nhưng hai hình ảnh lại hài hoà hoà quyện vào nhau như một thể thống nhất không thể tách rời. Phải chăng đó mới chính là cuộc đời người lính vừa khắc nghiệt nhưng cũng có phần thi vị? Trong đau thương, mất mát vẫn ngời lên nét mặt tự hào. Sự hòa quyện này tạo nên chất thơ trong con người thép, chất thép trong cuộc đời lính hào hoa. Ta thấy phảng phất đâu đấy tâm hồn của vị cha già, người chiến sĩ kiên trung nhất mà tâm hồn thì luôn tự do lộng gió thời đại “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Câu thơ chỉ bốn tiếng nhưng đã làm nổi bật ý nghĩa của cuộc chiến vệ quốc vĩ đại của chúng ta. Người lính không hề muốn chiến tranh, họ sỡ dĩ cầm ngọn súng là để bảo vệ ánh trăng kia, bảo vệ nền hòa bình độc lập. Cũng giống như tất cả con người trên đất nước này, không ai mong muốn chiến tranh, cũng chẳng ai muốn mình trở thành người hùng chỉ vì nhiệm vụ của thời đại mình, vì sự bình yên muôn đời của thế hệ sau mà các anh phải cầm súng đi đầu.

Đồng Chí là bài thơ giàu cảm xúc, nhà thơ đã sử dụng từ ngữ giản dị, đậm chất lính, giàu nhạc điệu vì thế mà đã được nhiều nhạc sĩ chọn phổ nhạc. Khi viết về người lính, Chính Hữu luôn đặt mình ở vị trí của các chiến sĩ. Hơn như thế, tâm hồn nhà thơ quân đội đã thuộc trọn vẹn về người lính. Bởi thế mà đọc từng câu thơ trong bài Đồng Chí ta bắt gặp được niềm hạnh phúc âm thầm cất giữ của nhà thơ khi bản thân cũng là một người lính cụ Hồ. Đồng Chí hoàn thành sứ mệnh của một tác phẩm văn chương cách mạng vừa có sức khơi gợi lòng yêu quê hương, yêu tổ quốc, tình đoàn kết keo sơn của người lính cũng vừa dựng nên một tượng đài người lính trong buổi đầu kháng Pháp.

Bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng không bao giờ tắt, ngọn lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh. Đến hôm nay, ngọn lửa ấm nồng vẫn còn tiếp tục truyền niềm tin của thế hệ mai sau về những con người biết cách biến đời mình thành bất tử.

Lớp 1

Tài liệu Giáo viên

Lớp 2

Lớp 2 - Kết nối tri thức

Lớp 2 - Chân trời sáng tạo

Lớp 2 - Cánh diều

Tài liệu Giáo viên

Lớp 3

Lớp 3 - Kết nối tri thức

Lớp 3 - Chân trời sáng tạo

Lớp 3 - Cánh diều

Tài liệu Giáo viên

Tài liệu Giáo viên

Lớp 4

Lớp 4 - Kết nối tri thức

Lớp 4 - Chân trời sáng tạo

Lớp 4 - Cánh diều

Tiếng Anh lớp 4

Tài liệu Giáo viên

Lớp 5

Sách giáo khoa

Sách/Vở bài tập

Tài liệu Giáo viên

Lớp 6

Lớp 6 - Kết nối tri thức

Lớp 6 - Chân trời sáng tạo

Lớp 6 - Cánh diều

Tiếng Anh

Tài liệu Giáo viên

Lớp 7

Lớp 7 - Kết nối tri thức

Lớp 7 - Chân trời sáng tạo

Lớp 7 - Cánh diều

Tiếng Anh

Tài liệu Giáo viên

Lớp 8

Lớp 8 - Kết nối tri thức

Lớp 8 - Chân trời sáng tạo

Lớp 8 - Cánh diều

Tiếng Anh

Tài liệu Giáo viên

Lớp 9

Sách giáo khoa

Sách/Vở bài tập

Tài liệu Giáo viên

Lớp 10

Lớp 10 - Kết nối tri thức

Lớp 10 - Chân trời sáng tạo

Lớp 10 - Cánh diều

Tiếng Anh

Tài liệu Giáo viên

Lớp 11

Lớp 11 - Kết nối tri thức

Lớp 11 - Chân trời sáng tạo

Lớp 11 - Cánh diều

Tiếng Anh

Tài liệu Giáo viên

Lớp 12

Sách giáo khoa

Sách/Vở bài tập

Tài liệu Giáo viên

Giáo viên

Lớp 1

Lớp 2

Lớp 3

Lớp 4

Lớp 5

Lớp 6

Lớp 7

Lớp 8

Lớp 9

Lớp 10

Lớp 11

Lớp 12


*

500 bài văn hay lớp 9Phong cách Hồ Chí Minh
Đấu tranh cho một thế giới hòa bình
Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Viết bài tập làm văn số 1: Văn thuyết minh
Chuyện người con gái Nam Xương
Truyện cũ trong phủ chúa Trịnh
Hoàng Lê Nhất Thống Chí
Truyện Kiều
Chị em Thúy Kiều
Cảnh ngày xuân
Kiều ở lầu Ngưng Bích
Viết bài tập làm văn số 2: Văn tự sự
Mã Giám Sinh mua Kiều
Thúy Kiều báo ân báo oán
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Lục Vân Tiên gặp nạn
Đồng Chí
Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Đoàn thuyền đánh cá
Bếp lửa
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹÁnh trăng
Làng
Lặng lẽ Sa Pa
Viết bài tập làm văn số 3: Văn tự sự
Chiếc lược ngà
Cố hương
Những đứa trẻ
Bàn về đọc sách
Tiếng nói của văn nghệ
Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
Con cò
Mùa xuân nho nhỏ
Viếng lăng Bác
Sang thu
Nói với con
Mây và sóng
Bến quê
Những ngôi sao xa xôi
Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang (trích Rô-bin-xơn Cru-xô)Bố của xi-mông
Con chó bấc
Bắc sơn
Tôi và chúng ta
Top 40 Cảm nhận về bài thơ Đồng chí (hay nhất)
Trang trước
Trang sau

Bài văn Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí gồm dàn ý chi tiết và trên 40 bài văn cảm nhận mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 9. Hi vọng với các bài văn cảm nhận của em về bài thơ Đồng Chí này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.


Top 40 Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí (hay nhất)

Bài giảng: Đồng chí - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên Viet
Jack)

Dàn ý Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Chính Hữu, bài thơ Đồng chí.

2. Thân bài

* Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính

a. Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân

- Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của anh và tôi – của những người lính cách mạng:

“Quê hương tôi nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”

+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện

- Các anh ra đi từ những miền quê nghèo đói, lam lũ - miền biển nước mặn, trung du đồi núi, và gặp gỡ nhau ở tình yêu Tổ quốc lớn lao. Các anh là những người nông dân mặc áo lính – đó là sự đồng cảm về giai cấp.

- Cũng như giọng thơ, ngôn ngữ thơ ở đây là ngôn ngữ của đời sống dân dã, mộc mạc:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.

- Đến từ mọi miền đất nước, vốn là những người xa lạ, các anh đã cùng tập hợp trong một đội ngũ và trở nên thân quen.

b. Cùng chung mục đích, lí tưởng chiến đấu:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

- Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa tượng trưng => Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu, các anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.

c. Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn

- Mối tính tri kỉ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng một hìn ảnh cụ thể, giản dị, gợi cảm:“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.

- Chính trong những ngày gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau,để cùng chung nhau cái giá lạnh mùa đông, chia nhau cái khó khăn trong một cuộc sống đầy gian nan.

- Dòng thơ thứ bảy trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm sáng tạo, một nét độc đáo qua ngòi bút của Chính Hữu:

+ Dòng thơ được tách riêng độc lập, là một câu đặc biệt gồm từ hai âm tiết đi cùng dấu chấm than, ngân vang như tiếng gọi tha thiết, tạo một nút nhấn, lắng lại.

+ Hai tiếng “Đống chí” thật giản dị, đẹp đẽ, là điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến tranh.

- Dòng thơ thứ bảy có ý nghĩa như một bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ hai của bài thơ, là điểm nhấn, là mạch cảm xúc chung cho toàn bài. Có thể nói, hai tiếng “Đồng chí” vang lên thật giản dị và mang ý nghĩa vô cùng thiêng liêng trong thơ ca kháng chiến.

* Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí

a. Tình đồng chí của người lính Cách mạng được biểu hiện qua sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

- Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trăn trở.

- Hai chữ “mặc kệ” => Thái độ dứt khoát của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa:“Anh trai làng quyết đi giết giặc lập công”.

- Hình ảnh “gian nhà không” vừa gợi cái nghèo, cái xơ xác của những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống trải trong lòng người ở lại.

- “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhị, giàu sức gợi. Quê hương nhớ người đi lính hay chính những người ra đi luôn nhớ về quê hương. Thủ pháp nhân hóa và hai hình ảnh hoán dụ đã biểu đạt sâu sắc tâm trạng, nỗi niềm của những người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của đất nước.

b. Là đồng chí của nhau, họ cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”.

- Những chi tiết tả thực, hình ảnh sóng đôi đã góp phần tái hiện chân thực những khó khăn, gian khổ của cuộc đời người lính trong buổi đầu kháng chiến. Các anh đã cùng nhau gánh vác, cùng nhau chịu đựng…Chính tình đồng đội đã giúp họ lên cái “buốt giá” của mùa đông chiến đầu để rồi tỏa sáng nụ cười và càng thương nhau hơn.

- Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” có sức gợi nhiều hơn tả với nhịp thơ chảy dài. Đây là cách thể hiện tình cảm rất lính. “Tay nắm lấy bàn tay” để truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng đội, truyền cho nhau sức mạnh của tình đồng chí. Cái nắm tay ấy còn là lời hứa hẹn lập công.

* Biểu tượng của tình đồng chí

- Tình đồng đội trong bài “Đồng chí” được Chính Hữu thể hiện thật đẹp qua những câu thơ cuối bài:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”.

- Đây là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng cao cả về cuộc đời người chiến sĩ.

- Rừng hoang sương muối: gợi sự khốc liệt, khắc nghiệt của thiên nhiên, của chiến tranh.

- “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh rất thực và cũng rất lãng mạn:

+ “Súng” và “trăng” – hai hình ảnh tưởng như đối lập song lại thống nhất hòa quyện – là cứng rắn và dịu êm – là gần và xa – là thực tại và mơ mộng – là chất chiến đấu và chất trữ tình – là chiến sĩ và thi sĩ.

+ Hiếm thấy một hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu.

+ Đây là một phát hiện, một sáng tạo bất ngờ về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm hồn người chiến sĩ. Hình tượng này góp phần nâng cao giá trị bài thơ và trở thành nhan đề cho cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.

3. Kết bài:

- Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật qua đó nếu cảm nhận của em về tác phẩm.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí - mẫu 1

"Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.

Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt" người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:

"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".

Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ "đôi người xa lạ" rồi "thành đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: "Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau". Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!"

"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; "anh với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ" là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới "thành đôi tri kỉ". "Đôi tri ki" là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ "đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên.

Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:

"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".

Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: "Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...", được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?. Hay "người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê huơng đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nén sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa.

"Bấm tay tính buổi anh đi,

Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?

(...) Anh đi chín đợi mười chờ,

Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"

Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men.... Người lính ra trận "áo vải chân không đi lùng giặc chinh", áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, "Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi":

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày..."

Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: "anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: "Miệng cười buốt giá" thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm lấy bàn tay". Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, "đi tới và làm nên thắng trận".

Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - hai đồng chí trong chiến dấu. Họ cùng "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang sương muối. Và, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng "chờ giặc tới", hai chiến sĩ vẫn "đứng cạnh bên nhau", vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:

"Đầu súng trăng treo".

Người chiến sĩ trên đường ra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông "rừng hoang sương muối" thì có "đầu súng trăng treo". Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. "Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ - Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh "chờ giặc tới". Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.

Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ."Đồng chí" là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí - mẫu 2

Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa hoa mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc.Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và hình ảnh người lính với những ngôn từ hàm súc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải nghiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.

Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh.

Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành tình đồng chí

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày sỏi đá”

Hai câu đầu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua”, cách nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá”, giọng thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ: một người ở miền biển “nước mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi đá”. Phải chăng chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các ạnh đã tham gia đội ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen “anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau :

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: “súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ, chung hành động; “đầu sát bên đầu” là chung chí hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã dung các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng viết:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể nào quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết, càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ than thiết của nhau mà đẫ trở thành những người “đồng chí”.“Đồng chí!” Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lí tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sang ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.Trải qua những khó khắn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ :

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái “mặc kệ” vốn chỉ thái dộ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trrong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh – những người lính luôn hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu dành lại độc lập cho dân tộc.Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Rét run người vầng trán ướt mồ hôi …

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh – tôi”, “áo anh – quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình yêu thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt:

“Rừng hoang sương muối”

“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm phục kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tương của cuộc chiến đấu đầy gián khổ, hi sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.

Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sấng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.

Xem thêm: 2 Phiên Bản "Lạ" Tây Du Kí Mới Về 'Tây Du Ký' Bị Chê

Cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí - mẫu 3

"Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình đồng đội gian khổ, vào sinh tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt" người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Mở đầu bài thơ với giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:

"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"

Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ "đôi người xa lạ" rồi "thành đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: "Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau". Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!"

"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; "anh với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ" là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới "thành đôi tri kỉ". "Đôi tri ki" là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ "đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:

"Ôi núi thẳm rừng sâu

Trung đội đã về đâu

Biết chăng chiều mưa mau

Nơi đây chăn giá ngắt

Nhớ cái rét ban đầu

Thấm mối tình Việt Bắc..."