Văn học lãng mạn được xem là một trong các trào lưu văn học. Có rất nhiều tác phẩm văn học lãng mạn nói về những giá trị cuộc sống, con người,…Nhiều người thường hiểu nhầm rằng văn học lãng mạn rất sến súa, luỵ hay quá xa rời hiện thực. Tuy nhiên cần nhìn nhận một cách khách quan rằng, văn học lãng mạn đã đóng góp rất nhiều cho nền văn học Việt Nam. Cùng Bamboo School tìm hiểu về văn học lãng mạn tại bài viết dưới đây nhé!
Văn học lãng mạn là gì?
Văn học lãng mạn là một trào lưu văn học. Trong văn học lãng mạn mang một khuynh hướng cảm hứng được khởi nguồn từ sự khẳng định cái tôi cá nhân, cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và cả trí tưởng tượng. Văn học lãng mạn mang xu thế giúp con người nhìn nhận vấn đề cuộc sống một cách khách quan nhất.
Bạn đang xem: Các tác phẩm văn học lãng mạn việt nam
Văn học lãng mạn có tác dụng như thế nào?
Văn học lãng mạn thường có 2 xu hướng là tích cực và tiêu cực. Nó chủ yếu được dùng với ba đề tài chính: thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo để thể hiện nỗi đau buồn cùng cực, sầu não hay thậm chí là tuyệt vọng, bơ vơ, cô đơn nhưng vẫn mang chút hy vọng về một thứ gì đó tốn hơn.Ngoài ra còn thể hiện ý thức sâu sắc về cá nhân, cá tính. Hướng vào cái tôi cá nhân và đời sống nội tâm tràn đầy tình cảm, xúc cảm.
Xu hướng văn học lãng mạn
Chủ nghĩa lãng mạn đến với văn học Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX với thơ văn, từ khúc. Đến những năm 1930 1945, chủ nghĩa lãng mạn phát triển mạnh mẽ thành trào lưu rầm rộ với đầy đủ các đặc trưng của nó trên tất cả các thể loại với Tự lực văn đoàn, Hà Nội mới,… Từ đó, văn học lãng mạn cũng mang lại làn gió mới trong sự phát triển của văn học Việt Nam.
Đặc trưng của văn học lãng mạn
Nếu chủ nghĩa hiện thực thì nghiêng về phản ánh, chủ nghĩa lãng mạn nghiêng về bộc lộ thì chủ nghĩa lãng mạn là cảm nhận và suy nghĩ như thế nào thì viết ra như thế ấy. Văn học lãng mạn nghiêng về xu hướng hướng nội. Có thể nói đặc trưng lớn nhất của văn học lãng mạn là lấy tình cảm làm trung tâm, không quan trọng yếu tố cốt truyện.
Văn học lãng mạn chính là sự phản ứng chống lại xã hội đương thời, con người luôn muốn thoát li thực tế tìm đến một thế giới khác giúp con người quên đi cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét. Nó vẽ ra một cuộc sống làm thỏa mãn “cái tôi” bị tổn thương của con người, nên thế giới trong văn học lãng mạn là thế giới mộng tưởng, đề cao tình cảm và tự do cá nhân.
Các tác phẩm văn học lãng mạn
Nói đến các tác phẩm văn học thì có rất nhiều tác phẩm văn học lãng mạng mang chiều hướng sâu sắc. Tuy lãng mạn nhưng các tác phẩm này không bi lụy mà vẫn cổ vũ con người sống lạc quan hơn nữa dù hoàn cảnh có khó khăn ra sao. Dưới đây là một số tác phẩm tiêu biểu:
Hai đứa trẻ – Thạch Lam
Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân
Nhà mẹ Lê – Thạch Lam
Nhà thờ Đức Bà Paris
Hồng lâu mộng
Kiêu hãnh và định kiến
Cuốn theo chiều gió (Gone With The Wind)Tiếng chim hót trong bụi mận gai (The Thorn Birds)Đồi gió hú (Wuthering Heights)Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)…
Trên đây là những nét đặc trưng của văn học lãng mạn. Với những chia sẻ trên từ Bamboo School hy vọng rằng bạn có cái nhìn đa chiều đối với các tác phẩm văn học Việt Nam hơn!
Bạn đang xem: 10 Tác Giả “Thống Trị” Dòng Văn Học Lãng Mạn Việt Nam, Đề Tài Đặc Trưng Của Chủ Nghĩa Lãng Mạn Tại Trường Trung cấp, Cao đẳng, Đại học Xây dựng tại TPHCM – Sài GònBạn đang quan tâm đến 10 Tác Giả “Thống Trị” Dòng Văn Học Lãng Mạn Việt Nam, Đề Tài Đặc Trưng Của Chủ Nghĩa Lãng Mạn phải không? Nào hãy cùng eivonline.edu.vn đón xem bài viết này ngay sau đây nhé, vì nó vô cùng thú vị và hay đấy!
Biêlinxki trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa: “Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim”.
Đang xem: Văn học lãng mạn việt nam
Văn học lãng mạn là một trào lưu văn học, đồng thời cũng là khuynh hướng sáng tác. Đây là một trào lưu sáng tác còn nhiều tranh cãi bởi một số quan điểm cho rằng những tác phẩm theo trường phái này quá bi lụy, thiên về tình cảm và xa rời hiện thực. Tuy nhiên cần nhìn nhận một cách khách quan rằng, văn học lãng mạn đã đóng góp rất nhiều cho nền văn học Việt Nam khi nó ra đời về cả nội dung lẫn nghệ thuật, đồng thời vẫn mang những giá trị nhân văn vốn có của văn học Việt Nam.
Mục Lục
Hoàn cảnh ra đời
Cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã đánh đổ chế độ phong kiến. Sự kiện này là một bước ngoặt vĩ đại không chỉ đối với Pháp mà còn đối với cả Châu Âu. Chính sự sụp đổ của chế độ phong kiến và sự hình thành quan hệ xã hội mới đã tác động sâu sắc đến tư tưởng tình cảm của mọi tầng lớp trong xã hội.
Đối với lớp người thuộc ý thức hệ quý tộc (lớp người cũ), họ cảm thấy bất mãn với trật tự xã hội mới (các đặc quyền, đặc lợi của họ trước kia hoàn toàn mất sau cuộc cách mạng này), lo sợ trước các phong trào quần chúng, hoang mang vì tương lai mờ mịt đồng thời luyến tiếc thời oanh liệt không còn nữa. Một bộ phận tầng lớp tiểu tư sản bị phá sản khi cách mạng nổ ra nên họ có tâm trạng bi đát Đối với những người ủng hộ cách mạng lại cảm thấy bất mãn với thành quả đạt được, từ đó dẫn tới khuynh hướng thoát ly hiện thực, sản sinh ra chủ nghãi văn học lãng mạn.
Nước ta vào những năm bị thực dân Pháp xâm lược, chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa phương Tây, văn hóa Pháp du nhập vào Việt Nam với hạt nhân là tính tự do cá nhân được đề cao, đem đến một tư tưởng mới mẻ cho một nền văn học bị kìm hãm bởi những quan niệm phong kiến đã không còn hợp lý. Những tác giả nhanh chóng tiếp thu những cái hay của văn học lãng mạn, vào tạo thành trào lưu sáng tác lãng mạn.
Đặc trưng của văn học lãng mạn
Nếu chủ nghĩa hiện thực thì nghiêng về phản ánh, chủ nghĩa lãng mạn nghiêng về bộc lộ. Chủ nghĩa hiện thực thì thấy thế nào miêu tả thế ấy bằng phương pháp điển hình hóa. Chủ nghĩa lãng mạn cảm và suy nghĩ thế nào viết thế ấy. Chủ nghĩa hiện thực nghiêng về xu hướng hướng ngoại. Chủ nghĩa lãng mạn lại nghiêng về xu hướng hướng nội. Một bên xem cuộc sống là đối tượng khách thể để miêu tả,một bên lấy cái Tôi làm trung tâm để thể hiện. Có thể nói đặc trưng lớn nhất của văn học lãng mạn là lấy tình cảm làm trung tâm, không quan trọng yếu tố cốt truyện. Đặc biệt, văn học lãng mạn có những quan điểm mới về cái đẹp, cho rằng nghệ thuật vị nghệ thuật, thơ đơn thuần là thơ.
Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ứng chống lại xã hội đương thời, con người muốn thoát li thực tế tìm đến một thế giới khác giúp con người quên đi cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc sống làm thỏa mãn “cái tôi” bị tổn thương của con người, nên thế giới trong chủ nghĩa lãng mạn là thế giới mộng tưởng, đề cao tình cảm và tự do cá nhân. Chủ nghĩa lãng mạn chia thành hai xu hướng. Xu hướng tích cực phủ nhận thực tại xã hội, những sáng tác của họ phù hợp với lợi ích của nhân dân, về cơ bản vẫn giữ được tinh thần đấu tranh xã hội, bất bình với thực tại, các nhà lãng mạn muốn tìm ra giải pháp chống lại những tệ nạn xấu xa của xã hội.. , song còn mang tính cải lương, chưa đủ mạnh mẽ. Xu hướng tiêu cực lại có cái nhìn quá bi quan, chán nản, thi vị hóa hiện thực, vị kỉ hóa cá nhân một cách thái quá, kêu gọi con người thoát ly hiện thực.
Nhìn chung, văn học lãng mạn đã giải phóng cái tôi cá nhân một cách triệt để sau hàng nghìn năm bị kìm hãm, đề cao tình cảm cá nhân, đặt con người trở về những tình cảm giản dị nhất, ước mơ bình thường nhất mà bấy lâu nay văn học không dám nói do sự hà khắc của chế độ phong kiến.
Quá trình phát triển
Ở Việt Nam, văn học lãng mạn bao gồm phong trào thơ mới và văn xuôi lãng mạn. Có thể chia thành từng thời kì sau:
– Thời kỳ 1930-1935
Đây là giai đoạn đánh dấu sự ra đời của phong trào thơ mới với những cái tên xuất sắc như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu… và văn xuôi lãng mạn với đại diện tiêu biểu là nhóm tự lực văn đoàn.
Bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này là văn học lãng mạn: Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và thơ mới. Đối với thơ mới, sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới.
Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tập Mấy vần thơ (1935). Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên …
Tiểu thuyết của nhóm tự lực văn đoàn trước mắt gây được tiếng vang, với những đại diện tiêu biểu là Nhất Linh, Khái Hưng, và Thạch Lam.
– Giai đoạn 1936 – 1939
Đây là giai đoạn chứng kiện sự giao thoa giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trong văn học lãng mạn, các nhà văn trước sự tác động của các cuộc biểu tình, chiến đấu và hoạt động của mặt trận dân chủ bắt đầu chú ý hơn đến cuộc sống hiện thực của con người. Đặc biệt được thể hiện trong văn xuôi của Thạch Lam, yếu tố hiện thực được đưa vào rất nhiều. Đối với phong trào thơ mới, các nhà thơ vẫn đề cao tình cảm cá nhân, và tuyệt đối hóa cái tôi. Bên cạnh những tình cảm tích cực của Xuân Diệu, nỗi buồn và tiếc nuối quá khứ của Vũ Đình Liên, tình yêu nước của Huy Cận, thơ mới bắt đầu đi vào giai đoạn thoái trào.
– Giai đoạn 1940-1945
Văn học lãng mạn bước vào giai đoạn thoái trào, trước sự kêu gọi đấu tranh giải phong dân tộc, văn học lãng mạn đã không còn tiếp tục có thể thực hiện chức năng của nó. Các nhà văn rơi vào trạng thái bế tắc, các tác phẩm tuyệt đối hóa cá nhân một cách quá mức trong khi đất nước đang bước vào giai đoạn mới, đòi hỏi văn học có những chức năng mới. Văn học lãng mạn kết thúc là một sự tất yếu, hợp với quy luật của lịch sử, nhường chỗ cho chủ nghĩa văn học khác với những chức năng khác.
Xem thêm: Tải sách 100 ý tưởng tiếp thị tuyệt hay pdf, tải sách 100 ý tưởng pr tuyệt hay pdf
Văn học lãng mạn, nhìn ở góc độ tích cực đã đem đến cho nền văn học Việt Nam sự cách tân mới mẻ về hình thức và nội dung, làm tiền đề cho sự phát triền của văn học sau này. Chỉ tồn tại một thời gian ngắn nhưng đã để lại cho văn học nước ta những tác phẩm bất hủ mà không bao giờ ta có thể tìm lại ở những thời kì văn học khác.